Chủ đề này hướng tới 90% số người nhiễm HIV biết tình trạng HIV của bản thân; 90% số người biết tình trạng nhiễm HIV được điều trị ARV liên tục suốt đời và 90% số người điều trị ARV duy trì tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế. Nếu đạt được 3 mục tiêu 90 - 90 - 90 thì Việt Nam có thể phát hiện hầu hết những người nhiễm HIV trong cộng đồng; điều trị được hầu hết những người nhiễm HIV với kết quả điều trị tốt, giảm tối đa khả năng lây nhiễm HIV cho người khác, người đã nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh, từ đó có thể đạt được mục tiêu to lớn hơn là kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030 như Liên hợp quốc đề ra.
Tại nước ta, theo báo cáo tổng hợp từ các địa phương, các chỉ tiêu hiện tại của Việt Nam còn khá xa so với các mục tiêu 90-90-90 mà Liên hợp quốc đề ra. Với mục tiêu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV, Việt Nam đã đạt được khoảng 78%. Tuy nhiên, mục tiêu 90% người nhiễm HIV được điều trị ARV thì còn quá xa so với mục tiêu đề ra. Với mục tiêu 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp và ổn định, Việt Nam chưa có điều kiện tổ chức xét nghiệm được thường quy trong thời gian qua nên chưa có số liệu chính xác. Điều này đòi hỏi sự cam kết và nỗ lực lớn hơn nữa, mạnh mẽ hơn của các cấp lãnh đạo, mỗi người dân trong việc nâng cao nhận thức về phòng, chống HIV/AIDS.
Điều trị bằng thuốc kháng vi rút ARV giúp người nhiễm HIV tăng khả năng hồi phục hệ thống miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, giảm tử vong, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống; đồng thời điều trị ARV kịp thời cho người nhiễm còn là một trong các biện pháp dự phòng, giảm khả năng lây lan HIV ra cộng đồng. Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, người nhiễm HIV nếu được điều trị sớm bằng ARV và tuân thủ điều trị tốt sẽ đạt được tuổi thọ tương đương người bình thường. Do vậy, hiện nay Việt Nam đang có chủ trương mở rộng và điều trị sớm, nâng ngưỡng bắt đầu điều trị ARV cho người nhiễm HIV tương đương các nước tiên tiến theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tức là nâng lên ngưỡng 500 tế bào CD4/mm3 máu và điều trị ngay ARV khi phát hiện nhiễm HIV không phụ thuộc CD4 cho các đối tượng nhiễm HIV nguy cơ cao, phụ nữ mang thai nhiễm HIV, người nhiễm HIV ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Song song với việc mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ điều trị và chăm sóc HIV/AIDS bằng cách phân cấp và lồng ghép vào hệ thống khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu, tổ chức điều trị ARV trong trại giam, trung tâm 06, điều trị ARV hiện nay đã được triển khai ở tất cả 63 tỉnh, thành phố với 312 cơ sở điều trị và 562 trạm y tế triển khai cấp phát thuốc ARV, đến nay đã điều trị cho 102.537 bệnh nhân, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2010. Thời gian tới, khi nguồn lực tài trợ quốc tế giảm, bảo hiểm y tế được xác định là giải pháp đảm bảo bền vững trong điều trị ARV cho người nhiễm HIV.
Mặc dù đã có những thành công nhất định nhưng chương trình phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta đang đứng trước rất nhiều thách thức. HIV/AIDS vẫn đang là vấn đề sức khỏe công cộng quan trọng, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Số lũy tích HIV dương tính tiếp tục tăng cao, trên 200 nghìn người nhiễm HIV cần được chăm sóc, điều trị thường xuyên, liên tục, suốt đời. Mỗi năm vẫn có 12.000 người nhiễm HIV dương tính mới và 2.000 - 3.000 trường hợp tử vong do AIDS, gây tác động rất lớn về sức khỏe, kinh tế - xã hội. Hơn nữa, nhóm người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV vẫn ở mức cao. Thêm vào đó, mức độ bao phủ chương trình vẫn còn hạn chế, kể cả dự phòng, can thiệp giảm hại, xét nghiệm và điều trị, chưa đạt mức có thể khống chế được đại dịch HIV/AIDS.
Nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS chủ yếu dựa vào viện trợ của quốc tế và đang bị cắt giảm nhanh, trong khi các nguồn tài chính trong nước (ngân sách Nhà nước, bảo hiểm y tế) chưa kịp bù đắp thiếu hụt tài chính. Trong khi nguồn lực cắt giảm thì các mục tiêu, chỉ tiêu phòng, chống HIV/AIDS tiếp tục tăng cao (mục tiêu 90-90-90, điều trị Methadone cho 80.000 bệnh nhân…).
Để thực hiện thành công Mục tiêu 90-90-90 tiến tới kết thúc dịch AIDS, Việt Nam cần quyết liệt triển khai toàn diện các dịch vụ từ dự phòng, chẩn đoán về chăm sóc, điều trị. Hoạt động dự phòng, can thiệp giảm thiểu cần ưu tiên tập trung vào các địa bàn có tình hình dịch HIV và có nguy cơ xuất hiện dịch HIV cao; triển khai đồng bộ các can thiệp từ dự phòng đến điều trị cho đối tượng đích như truyền thông thay đổi hành vi, mở rộng phân phát bơm kim tiêm, bao cao su, điều trị Methadone.
Tiếp tục tập trung mở rộng xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng, bao gồm người có hành vi nguy cơ cao; đồng thời mở rộng và phân cấp mạng lưới phòng xét nghiệm khẳng định HIV tại tuyến huyện bằng 3 test nhanh. Ngành y tế sẽ thực hiện điều trị ARV theo tiêu chuẩn mới: điều trị ARV không phụ thuộc CD4 cho các đối tượng nhiễm HIV nguy cơ cao, phụ nữ mang thai nhiễm HIV, người nhiễm HIV ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người nhiễm có CD4 ≤ 500 TB/mm3.
Để cung cấp đầy đủ các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS ngành y tế cần tăng cường năng lực và phát triển hệ thống như: kiện toàn các cơ sở điều trị HIV/AIDS để tiếp cận được với bảo hiểm y tế, nâng cao năng lực cán bộ y tế trong hệ thống y tế công, tư về chăm sóc và điều trị, thiết lập hệ thống cung ứng thuốc ARV và các sinh phẩm xét nghiệm liên tục, đảm bảo chất lượng và giá thành hợp lý.