Biết tôi vào T.P Hồ Chí Minh, anh Dương Trọng Nghĩa nhắn tin kêu tôi đi uống cà phê tại đường Yecsin, quận 3. Anh Nghĩa là phóng viên chiến trường, kết thúc chiến tranh làm báo tại Thành phố rồi nghỉ hưu đã hơn 10 năm. Anh là bạn vong niên của tôi, quen nhau dễ có đến 40 năm. Số là là lần đó, cùng chuyến tàu đi Nha Trang họp, khi biết tôi là người Thái Nguyên, anh tỏ ra thân tình... Câu chuyện hôm đó của chúng tôi là ký ức về những chuyến tầu, chưa xa ngái như những ký ức tuổi thơ khác, nhưng lại ít có cơ hội tái hiện. Còn một anh bạn nữa - Ngô Hữu Hòa, học văn Sư phạm Việt Bắc, ra trường năm 1981, vào mãi Quảng Ngãi công tác, cũng thường hỏi tôi về những chuyến tàu và mấy sân ga... Thú thực, cả tôi (và chúng ta) nữa, không tiễn thì đón, thế nào mà chả một đôi lần trên những sân ga, nên cũng rất đồng cảm.
Ngô Hữu Hòa bảo, anh cứ chọn “Một ga nào không vắng lắm” trên tuyến Hà Nội - Thái Nguyên đưa lên Facebook cho chúng em đỡ nhớ. Ga Đồng Quang hay Quán Triều càng tốt… Tôi nói lại với Hòa rằng tôi sẽ về - Về một miền ký ức không của riêng ai. Sân ga Đồng Quang (Ga Thái Nguyên) không một bóng người, tĩnh lặng một cách lười nhác, cam chịu vì nó kỳ này không phải chờ đợi ai cả. Một thông báo lạnh lùng in trên giấy A4 dán tại cửa ra vào: “Kể từ ngày 4/5/2020, tạm ngừng chạy tầu khách QT 1/2 (chiều từ Thái Nguyên đi Hà Nội và ngược lại), cho đến khi có công điện mới.”. Trưởng ga Thái Nguyên Nguyễn Hữu Nam, tuổi mới ngoài băm - do tôi hẹn trước nên dù Chủ nhật cũng đã có mặt. Tôi nói về lý do tìm đến sân ga. Rằng đến để tìm lại tuổi trẻ, tìm lại ký ức mà không phải cho riêng tôi. Rằng tôi là nhà báo, tôi lại phải có trách nhiệm viết báo nữa…Nam tỏ vẻ hào hứng, chăm chú.
***
Và tôi kể lại với Nam câu chuyện của anh Dương Trọng Nghĩa và Hữu Hòa: Anh Nghĩa là học sinh miền Nam, Trường 8 Hải Phòng ,gia đình thứ hai là nhà bố mẹ nuôi gần cầu Tam Bạc. Học hết 10, anh vào học Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp và sơ tán lên Vạn Thọ, Đại Từ (Thái Nguyên). Thế là mấy năm trời anh gắn bó với những con tầu. Anh đáp tầu Hải Phòng đến ga Gia Lâm, chuyển tàu Thái Nguyên. Thường sinh viên các anh xuống Ga Đồng Quang, gom dăm bảy sinh viên các khoa thành tốp rồi đi bộ xuyên Phúc Trìu, Tân Thái hay An Khánh lên Vạn Thọ, Ký Phú, Văn Yên về Trường, vất vả mà vui. Ban ngày máy bay Mỹ thường oanh tạc nên hầu hết đi tàu đêm… còn Hữu Hòa vốn học Sư phạm Việt Bắc thì bảo: Ga Đồng Quang là nơi chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc đón và tiễn cảm động. Thời sinh viên chưa yêu nhưng thường có bạn gái. Chen lấn để mua được vé cho mình và cho bạn là cả một nỗi nhọc. Nhưng chen bật người khác để mình và bạn lên được tàu, có chỗ ngồi còn gian nan hơn nhiều. Vậy nhưng hành động đó thuộc loại “Anhhùng đoán giữa trần ai” nên tự hào lắm lắm…Trưởng ga Nguyễn Hữu Nam nghe một cách chăm chú.
Chú cũng rất nhiều kỷ niệm đẹp với sân ga này cháu ạ - Dứt chuyện của hai người bạn tôi nối tiếp vào câu chuyện của chính mình: Đó là chuyến tàu xuôi ngày 29/4/1980, chú đi tàu Thái - Hà Nội chuyến 7 giờ 30 phút về Hà Nội rồi lên tầu Thống Nhất đi nhận công tác tại T.P Hồ Chí Minh. Có một nữ sinh văn Đại học Sư phạm Việt Bắc hẹn đưa tiễn. Sáng đó trời rất đẹp, sân ga đông nghịt, chủ yếu sinh viên các trường: Nông nghiệp 3, Cơ điện, Sư phạm về nghỉ lễ, và cả bạn thân đưa tiễn nữa…Nhà ga thông báo tàu đang vào ga, lưu lại 10 phút, yêu cầu quý khách đứng cách mép boong ke 1,5m. Tâm trạng chú rối bời, thảng thốt. Nếu bạn gái ấy không ra tiễn có nghĩa là… không có gì! Chú thầm trách cái ông Nguyễn Bính, làm thơ gì mà lại “Những cuộc chia lìa khởi từ đây/ Dây đàn sum họp đứt từngdây/ Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc…”. Anh nhân viên nhà ga đẩy chú lên tàu và tàu chuyển bánh. Vào cái phút thứ 89 ấy, sân ga xuất hiện cô sinh viên sư phạm. Cô ấy chạy theo đoàn tàu. Còn chú đứng ở bậc đầu tiên của bậc lên xuống, chìa tay nhận một gói nhỏ, một chiếc khăn tay… Tàu vào chỗ cua, ngoái đầu nhìn lại, sân ga còn mình bạn gái đang dõi theo đoàn tàu… Trưởng ga Nguyễn Hữu Nam vẫn chăm chú nghe, lúc này ánh mắt trở nên xa xăm… Ngành hỏa xa của anh hào hùng là thế nay gặp hồi bĩ cực thế này sao? Nghe hết câu chuyện của tôi, Trưởng ga Nguyễn Hữu Nam khẽ khàng: Năm 2018 dừng tàu khách 8 tháng. Bây giờ thì còn vài ba chuyến tàu hàng mỗi tuần…
Người Pháp, do chính sách khai thác thuộc địa nên đầu tư cho vận tải đường sắt bài bản và nhanh chóng. Năm 1881, mở đầu bằng xây dựng tuyến xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho dài 70km, khoảng cách đường ray 1m. Ngày 20/7/1885, chuyến tàu đầu tiên trong lịch sử hỏa xa Việt Nam lăn bánh. Ga Hà Nội (Hàng Cỏ) xây dựng vào năm 1900 cùng thời với Cầu Long Biên (Hà Nội), Cầu Tam Bạc (Hải Phòng) còn tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng đi tiếp Bằng Tường; Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Lào Cai đi tiếp Côn Minh hoàn thành vào năm 1902 và 1906. Sau 30 năm xây dựng, tuyến đường sắt Tháp Chàm đi Đà Lạt dài 110 km hoàn thành là một trong số ít kỳ quan đường sắt của thế giới vì nó leo núi bằng đầu tàu có bánh răng. Cũng phải mất ngót 50 năm (1899-1936), xương máu của hàng triệu người Việt Nam đổ xuống mới có được tuyến đường sắt Bắc - Nam… Lưu lượng hàng hóa và hành khách vận chuyển bằng đường sắt vô cùng lớn. Có thời điểm chiếm 40% tổng vận tải các loại.
Những năm 60 của thế kỷ trước ,tuyến đường sắt Hà Nội - Quán Triều (Thái Nguyên) được xây dựng gọi là tuyến đường xe lửa Thanh Niên, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Việt Bắc. Đến những năm 80, được nối dài lên Núi Hồng, thông với Tuyên Quang…
Sẽ là thiếu sót khi không điểm lại trong bài báo này những kỳ tích của tuyến đường Hà Nội - Thái Nguyên mà có lẽ thông sử chưa đề cập đầy đủ. Người Pháp xây dựng các tuyến đường sắt khoảng cách ray là 1m, do yêu cầu nâng cấp tải trọng, sau này,Trung Quốc nâng khoảng cách ray lên 1,45m. Trong nhiều năm, tuyến đường sắt liên vận quốc tế chạy qua Đồng Đăng cõng trên lưng nó một lượng hàng hóa khổng lồ, bao gồm cả xe tăng, tên lửa cung cấp cho chiến trường. Một tuyến đường sắt khoảng cách ray 1,45m được xây dựng bắt đầu từ Ga Kép đến Ga Lưu Xá dài 55km. Vì thế, Ga Lưu Xá nhiều năm là cảng nổi luân chuyển hàng hóa từ các nước XHCN anh em phục vụ các chiến trường chống Mỹ của Việt Nam. Sang năm 1972, Mỹ dùng thủy lôi phong tỏa Cảng Hải Phòng. Hàng về đến Kép chuyển sang Lưu Xá, Lưu Xá trở thành cảng cạn mỗi tháng, cả triệu tấn hàng qua đây…Tuyến đường sắt Kép-Lưu Xá những năm 80 nằm trong số phận giống như tàu điện Hà Nội - thành sắt phế, được bóc lên cho lò luyện nấu lại… Ga Đồng Quang và Quán Triều, những đêm không ngủ chống Tàu tháng 2, 3 năm 1979 là rộn rã những đoàn tàu chở bộ đội Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên hành quân lên phía Bắc chặn giặc…
Tôi chợt nhớ Nhà báo Cao Vũ Duy là người được đi nhiều nước từng chia sẻ: Từ Anh, Pháp, Đức, Ý, Triều Tiên… bây giờ người ta vẫn dùng tàu điện trong thành phố. Còn xe lửa bánh răng leo núi ở Đà Lạt, Thụy Sĩ mua giá thép phế về cho chạy leo núi An - Pơ. 5 tuyến xe điện Hà Nội chở cả nghìn khách mỗi giờ, những năm 80 bóc lên cho lò cao thép nấu lại…Vì sao trong chiến tranh bom đạn, bộn bề khó khăn, vận tải đường sắt vẫn chiếm tỷ trọng cao…Trong nhiều thứ cầu mong thì ta cầu cho COVID-19 chóng tan, và ông bụt hiện về bày cho một giải pháp tháo gỡ để những đoàn tầu lại hối hả vào ga.