Về Phú Hội 2 trong những ngày này, chúng tôi được hòa chung với không khí hăng say sản xuất của người dân trên những nương chè; sản phẩm chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGap của xóm đã được đóng gói; trưng bày ở một số sự kiện trong huyện, góp phần thiết thực hưởng ứng sự kiện Liên hoan Trà Quốc tế được tổ chức tại Thái Nguyên. Trưởng xóm trẻ Nguyễn Thị Nguyệt dẫn chúng tôi đi một vòng qua những đồi chè bát úp mầu xanh mơn mởn sắp đến kỳ thu hoạch. Vừa qua một tuần mưa, những nương chè như được tiếp thêm sức sống mới. Chị Nguyệt cho biết: xóm có 42 gia đình thì 100% số hộ có đất trồng chè với diện tích trên 10ha, trong đó có gần 8ha là các giống chè cành như: TRI 777, LDP1, Phúc Vân Tiên…, năng suất chè búp tươi của xóm đã đạt trên 90tạ/ha.
Theo lời kể của các cụ cao niên, cùng với quá trình lên khai hoang lập xóm của của người quê Thái Bình những năm 1960, cây chè đã được được phủ kín diện tích đất hoang hóa, thay thế diện tích rừng tạp và dần trở thành cây trồng xóa nghèo cho người dân Phú Hội 2. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa khác ở Định Hóa, sản phẩm chè Phú Hội 2 vốn không được đánh giá cao về chất lượng do chủ yếu là diện tích chè trung du đã bắt đầu già cỗi và cách thức chế biến còn lạc hậu. Do vậy, để nâng cao thu nhập cho người trồng chè, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng sản phẩm chè. Ông Đỗ Đức Biên, Bí thư Chi bộ xóm cho biết: “Sau nhiều lần bàn bạc, chúng tôi thống nhất cần phải có cách làm riêng, không chạy theo số lượng mà quan tâm cải thiện chất lượng và thương hiệu chè Phú Hội 2, bắt đầu bằng thay thế và cải tạo diện tích chè già cỗi. Trong nghị quyết hàng năm của Chi bộ xóm đều xác định cây chè là cây thế mạnh và tập trung đầu tư cho cây trồng này”.
Là một trong những người tiên phong cải tạo giống chè, gia đình chị Ngô Thị Thơm hiện có hơn 2.000m2 chè LDP1. Từ một gia đình khó khăn nay chị đã vươn lên khá giả, xây dựng cơ ngơi khang trang, đầy đủ tiện nghi. Chị tâm sự: “Mỗi lứa gia đình tôi thu hoạch được từ 150kg đến 170kg chè búp khô. Giá bán của chè LDP1 bình quân khoảng 90 nghìn đồng/kg, cao hơn hẳn so với chè trung du khoảng 20 tới 30 nghìn đồng. Chè đã trở thành cây làm giàu chứ không chỉ thoát nghèo như trước đây nữa”. Trong giai đoạn 2005-2010, bình quân mỗi năm Phú Hội 2 trồng mới và thay thế 1ha chè. Riêng năm 2011, xóm đặt chỉ tiêu trồng mới và thay thế 2ha chè cành, qua đó cơ bản xóa bỏ diện tích chè trung du đã già cỗi. Là địa phương tiên phong cải tạo giống chè, Phú Hội 2 đã xuất hiện nhiều cơ sở ươm chè và trở thành đầu mối cung cấp giống chè cành chủ yếu trên địa bàn huyện Định Hóa. Chỉ tính riêng 3 vườn ươm của các gia đình anh Tống Sỹ Tuân, Tống Sỹ Vinh và Đặng Ngọc Suất đã cung cấp hơn 250 vạn hom chè mỗi năm. Hơn 10 năm làm nghề, anh Tống Sỹ Tuân hiện có vườn ươm chè lớn nhất huyện Định Hóa với 140 vạn hom mỗi năm, cho thu nhập trên 300 triệu đồng.
Người dân Phú Hội 2 đã đổi mới tư trong quy trình chăm sóc và chế biến chè theo hướng an toàn. Nhờ đó, sản phẩm chè Phú Hội 2 dần khẳng định được chất lượng và nhiều người biết đến. Hiện nay, giá bán chè khô ở xóm đã cao hơn những xóm khác của xã từ 10 đến 15 nghìn đồng. Năm 2010, Tổ hợp tác chè Hương Hội ra đời tại xóm với 19 gia đình tham gia. Các thành viên trong Tổ được tập huấn quy trình chăm sóc, chế bến chè an toàn theo tiêu chuẩn Viêtgap. Trưởng xóm Nguyễn Thị Nguyệt, đồng thời là Tổ trưởng Tổ hợp tác chè biết: Tham gia tổ sản xuất, nhận thức về của người dân về quy trình sản xuất chè sạch, chè an toàn đã được nâng lên. Chúng tôi được dạy từ cách sử dụng phân bón vi sinh, phun thuốc trừ sâu đúng quy trình, cách thức hái và chế biến chè cũng có nhiều điểm khác so với thói quen trước đây… Đáng mừng hơn là tháng 6 vừa qua, sản phẩm chè an toàn mang nhãn hiệu Hương Hội đã được đóng gói và trưng bày ở nhiều nơi. Đây là cơ hội tốt để chè Phú Hội 2 quảng bá thương hiệu và vươn xa hơn nữa.
Đẩy mạnh chuyển đổi giống chè, đầu tư sản xuất và chế biến chè sạch, chè an toàn đã giúp cho giá trị kinh tế của cây trồng này tăng lên, biến giấc mơ làm giàu của nhiều người dân xóm Phú Hội 2 trở thành hiện thực.