Tăng cường tiếp cận điều trị viêm gan C ở người đồng nhiễm HIV/viêm gan C
Xét nghiệm là cách duy nhất để phát hiện đồng nhiễm HIV và viêm gan C. |
Sự tham gia tích cực của người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C vào việc phát hiện và điều trị viêm gan C sẽ góp phần giảm các trường hợp nhiễm mới và tử vong do viêm gan, hướng tới mục tiêu vì một thế giới không còn lây nhiễm bệnh viêm gan virus và tất cả người bệnh nhiễm viêm gan đều được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, điều trị an toàn và hiệu quả, với chi phí hợp lý.
Việt Nam là nước có gánh nặng về bệnh gan đứng thứ 2 trong khu vực Tây Thái Bình Dương. Theo ước tính của Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam hiện có khoảng 7,8 triệu người nhiễm viêm gan virus B (viêm gan B) mạn tính và gần 1 triệu người nhiễm viêm gan virus C (viêm gan C) mạn tính. Trong số này, tỷ lệ người nhiễm viêm gan C đồng nhiễm HIV khá cao.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm viêm gan C trên người nhiễm HIV khoảng 34,4% (26-44%). Toàn quốc hiện có trên 200.000 người nhiễm HIV còn sống, trong số này có trên 156.000 người đang điều trị thuốc ARV. Một số người nhiễm HIV đang điều trị đồng thời thuốc ARV và methadone.
Tình trạng nhiễm virus viêm gan C ở người nhiễm HIV có thể làm tăng nhanh tỷ lệ xơ hóa tiến triển và xơ gan so với người chỉ nhiễm viêm gan C. Ngay cả ở những người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C đã được điều trị thuốc ARV và có tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế thì nguy cơ xơ gan mất bù vẫn cao hơn ở người chỉ nhiễm viêm gan C. Mặc dù tỷ lệ tử vong ở người nhiễm HIV đã giảm đáng kể nhờ việc mở rộng điều trị thuốc ARV, tỷ lệ tử vong ở nhóm người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C không có xu hướng giảm do người bệnh gặp nhiều rào cản trong tiếp cận với các dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C.
Năm 2016, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo các quốc gia cần tăng cường điều trị viêm gan C trên người bệnh đồng nhiễm HIV để duy trì thành quả của chương trình điều trị HIV. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của y học, bệnh viêm gan C đã được điều trị khỏi trong vòng 12 tuần bằng phác đồ có các thuốc kháng virus trực tiếp (DAA) với tỷ lệ khỏi bệnh lên tới 98%, kể cả ở nhóm người đồng nhiễm HIV.
Hiện Việt Nam đang triển khai các biện pháp nhằm mở rộng dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C cho người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C. Từ cuối năm 2018, chi phí thuốc DAA điều trị viêm gan C đã bắt đầu được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả với tỷ lệ thanh toán bảo hiểm là 50%. Từ năm 2021, Quỹ Toàn cầu Phòng, chống AIDS, Lao và Sốt rét hỗ trợ miễn phí thuốc điều trị viêm gan C bằng phác đồ Sofosbuvir và Daclatasvir cho 16.000 người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS của 32 tỉnh/thành phố trên cả nước. Người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C được theo dõi đồng thời đối với điều trị thuốc ARV và viêm gan C ngay tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS từ tuyến quận/huyện trở lên. Sau hơn 2 tháng triển khai đã có trên 1.000 người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C được điều trị viêm gan C từ nguồn thuốc viện trợ miễn phí này.
Bên cạnh việc thuốc điều trị viêm gan C được cấp miễn phí, người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C sẽ được chi trả các dịch vụ khác như xét nghiệm chẩn đoán viêm gan C theo quyền lợi và mức hưởng của Quỹ Bảo hiểm y tế và các xét nghiệm khác theo quy định.
Mặc dù đã có những dấu hiệu tích cực cho việc điều trị viêm gan C cho người bệnh đồng nhiễm, hiện nay vẫn còn nhiều thách thức trong việc tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán và điều trị viêm gan C đối với người bệnh. Phần lớn xét nghiệm chẩn đoán viêm gan C chỉ được thực hiện tại các bệnh viện tuyến tỉnh gây khó khăn cho nhiều bệnh nhân trong việc tiếp cận với xét nghiệm chẩn đoán bệnh.
Trong khi giá xét nghiệm còn cao, mức hưởng từ Quỹ Bảo hiểm y tế đối với thuốc kháng virus trực tiếp cho bệnh nhân điều trị còn thấp cũng là một cản trở cho việc tiếp cận điều trị của người bệnh. Đây là những rào cản ảnh hưởng đến việc tiếp cận chẩn đoán và điều trị viêm gan C của người bệnh đồng nhiễm HIV/viêm gan C nói riêng và các bệnh nhân nhiễm viêm gan C nói chung. Ngoài ra, vấn đề người bệnh tuân thủ điều trị và dự phòng tái nhiễm cho người đã được chữa khỏi cũng là những vấn đề cần quan tâm trong công tác điều trị.